Bảo tàng Hậu cần trực thuộc Cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thuộc loại hình lịch sử quân sự chuyên ngành hậu cần có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, trưng bày, tuyên truyền giới thiệu các tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, phản ánh quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của ngành hậu cần quân đội trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc....

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

Tagged Under:

BÀI DỰ THI Tìm hiểu Truyền thống 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân

Share

 BÀI DỰ THI 

Tìm hiểu Truyền thống 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân



Câu 1: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày, tháng, năm nào? ở đâu? do ai làm Đội trưởng và Chính trị viên đầu tiên? Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là gì?

Trả lời

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập Ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) do đồng chí Hoàng Sâm được cử làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên.

Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân là “Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng,cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì LLVT trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện;đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến”. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân có chi bộ Đảng lãnh đạo. Chỉ có 34 người, với 34 khẩu súng các loại nhưng đó là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm trong các đội du kích Cao - Bắc - Lạng, Cứu quốc quân,... là con em các tầng lớp nhân dân bị áp bức, họ có lòng yêu nước, chí căm thù địch rất cao, đã siết chặt họ thành một khối vững chắc, không kẻ thù nào phá vỡ nổi.

 

Câu 2: Khái quát quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và những chiến công nổi bật của Quân đội nhân dân Việt Nam từ khi thành lập đến nay? Những chặng đường vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trả lời

Thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22/12/1944):

Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng giữa 2 tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Đội gồm 34 chiến sĩ, trang bị 34 khẩu súng, chia thành 03 tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo, do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên. Ngày 22/12 được xác định là Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và ngày Hội Quốc phòng toàn dân.

Những chiến công nổi bật của Quân đội nhân dân Việt Nam:

1.     Chiến thắng Phai Khắc và Nà Ngần (ngày 25 và 26/12/1944):

Ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cải trang dùng mưu tập kích diệt đồn Phai Khắc thuộc tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Tiếp đó, ngày 26/12, Đội đánh Đồn Nà Ngần (cách Phai Khắc 15 km về phía Đông Bắc).

2. Một số chiến thắng đầu tiên của Nam bộ kháng chiến:

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp có quân Anh tiếp sức đã trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngay trong những ngày đầu, quân và dân Sài Gòn đã lập được nhiều chiến công xuất sắc, đã tiêu hao sinh lực địch, phá huỷ một phần cơ sở của chúng. Nổi bật là các trận đánh ở Thị Nghè, cầu Bến Phân, đánh phá Khám lớn Sài Gòn, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn.

2.1. Một số chiến công mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc (19/12/1946)

Đêm 19 rạng 20/12/1946, tiếng súng kháng chiến bắt đầu nổ ra ở Hà Nội, mở đầu thời kỳ cả nước kháng chiến chống Pháp xâm lược. Với tinh thần "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh", các chiến sĩ vệ quốc quân, công an xung phong, tự vệ chiến đấu đánh địch rất dũng cảm. Nhiều trận đánh quyết liệt đã diễn ra ở Bắc Bộ Phủ, Nhà ga, cầu Long Biên, chợ Đồng Xuân.

Cùng với Hà Nội, quân và dân ta ở nhiều thành phố khác cũng tiến công và vây hãm địch.

2.2. Chiến thắng Việt Bắc (17/10 đến 22/12/1947)

Ngày 17/10/1947, giặc Pháp huy động 2 vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ trợ cuộc tiến công lớn lên Bắc Việt, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, kết thúc "chớp nhoáng" cuộc chiến tranh xâm lược. Quân và dân Việt Bắc đã liên tiếp đánh chặn và phản công tiêu diệt địch ở khắp nơi, nổi bật là các trận Bình Ca (Tuyên Quang), Bông Lau (Cao Bằng), Đoan Hùng, Khu Lau trên sông Lô.

2.3. Chiến thắng Biên giới (16/9 đến 14/10/1950)

Ngày 07/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh về chiến dịch Biên giới Cao-Lạng (chiến dịch Lê Hồng Phong II). Mục đích là tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. 

Ngày 16/9/1950, quân ta đánh trận mở đầu, diệt cụm cứ điểm Đông Khê. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 03/ 10/1950 địch vội cho quân ở Cao Bằng rút chạy, đồng thời huy động quân ở Thất Khê lên ứng cứu. Bộ đội ta liên tiếp đánh chặn trong 2 ngày 7 và 08/10/1950 lần lượt tiêu diệt 2 binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sáctông ở núi Cốc Xá và điểm cao 477. Thừa thắng, quân ta chuyển sang tiến công giải phóng một dải biên giới dài 100km từ Đồng Đăng (Lạng Sơn) đến Đình Lập, An Châu, Tiên Yên (Quảng Yên).

2.4. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (13/3 đến 07/5/1954)

Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công lần thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, lần lượt tiêu diệt các cứ điểm Him Lam, Độc Lập bức quân địch ở Bản Kéo đầu hàng, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm. Ngày 30/3/1954, ta mở đợt tiến công lần thứ 2 diệt các cứ điểm phía Đông, cuộc chiến đấu giành đi giật lại giữa ta và địch rất quyết liệt. Vòng vây của quân ta khép chặt dần, hãm quân địch vào tình thế rất khốn đốn. Ngày 01/5/1954, đợt tiến công thứ 3 bắt đầu; quân ta lần lượt đánh chiếm các cứ điểm phía đông và phía tây, bẻ gãy các cuộc phản kích của địch. Ngày 07/5/1954, bộ đội ta tổng công kích tiêu diệt toàn bộ cứ điểm Điện Biên Phủ.

2.5. Phong trào “Đồng Khởi” ở Miền Nam (Cuối  năm 1959 đầu 1960):

Cuối năm 1959, nhân dân nhiều xã ở huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) cùng với trung đội vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh đã nổi dậy khởi nghĩa diệt ác, trừ gian, giành chính quyền ở một số thôn xã, mở ra một giai đoạn đấu tranh mới và những ngày sau đó, nhân dân các huyện Mõ Cày, Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương đã nhất loạt nổi dậy, phá vỡ hoặc làm tê liệt chính quyền ấp, xã của địch, thành lập Ủy ban nhân dân tự quản.

Sau đó, phong trào"Đồng Khởi" đã nhanh chóng lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam bộ, Tây Nguyên và Miền tây các tỉnh khu 5, tạo thành một vùng căn cứ rộng lớn. Nhiều đơn vị dân quân du kính và bộ đội địa phương tỉnh, huyện đã hình thành và phát triển trong phong trào "Đồng Khởi".

2.6. Chiến thắng Ấp Bắc (02/01/1963):

Được tin có một lực lượng vũ trang cách mạng mới về Ấp Bắc, xã Tân Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, ngày 02/01/1963, Mỹ - Ngụy liền mở một cuộc càn lớn mang tên "Đức Thắng 1-63". Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân sau một ngày chiến đấu ta đã chiến thắng.

2.7. Đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ I của đế quốc Mỹ (07/02/1965 đến 16/11/1968) ở Miền Bắc Việt Nam:

Ngày 07/02/1965, đế quốc Mỹ dùng không quân mở chiến dịch "mũi lao lửa" và từ ngày 02/3/1965 gọi là chiến dịch "Sấm rìu" đánh phá liên tục miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Quân và dân miền Bắc đã anh dũng đánh trả địch, giành thắng lợi ngay từ trận đầu, tiếp đó lần lượt đập tan những bước leo thang của chúng, lập nên những chiến công oanh liệt, tiêu biểu là các trận:

- Ngày 04/4/1965 lần đầu tiên máy bay ta bắn rơi máy bay địch.

- Ngày 24/7/1965 lần đầu tiên bộ đội tên lửa ta bắn rơi nhiều máy bay địch.

Trước sự thất bại nặng nề ở miền Bắc và cả miền Nam, ngày 01/1/1968, Jiôn-xơn phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc, sau đó chấp nhận họp Hội nghị bốn bên tại Pa-ri.

2.8. Chiến thắng Bình Giã (12/1964 đến 1965):

Một đơn vị Quân giải phóng tham gia chiến đấu tại Bình Giã (Bà Rịa-Vũng Tàu), tháng 12-1964.

Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội chủ lực ta và báo hiệu thất bại của các biện pháp chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận" của Mỹ - Ngụy trong "Chiến tranh đặc biệt".

2.9. Chiến thắng Vạn Tường (18/8/1965):

Sáng 18/8/1965, Mỹ Ngụy mở cuộc hành quân "Ánh sao sáng" nhằm vào thôn Vạn Tường (Quảng Ngãi) với ý đồ diệt một đơn vị chủ lực ta, gây uy thế cho lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Cuộc hành quân "Tìm diệt" quy mô lớn của quân viễn chinh Mỹ bị đánh bại.

2.10. Chiến dịch Plây-me (19/10 đến 26/11/1965):

Từ 19/10 đến 16/11/1965, bộ đội ta tấn công cứ điểm Plây-Me, buộc quân địch ra ứng cứu. Ta đánh quân tiếp viện địch ở thung lũng I-a-đơ-răng, buộc quân Mỹ phải vào ứng cứu. Quân ta tập kích đánh phủ đầu diệt quân Mỹ. Sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ cơ động bằng máy bay lên thẳng lần đầu tiên xuất hiện ở miền Nam đã bị đánh bại.

2.11. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân (30/01 đến 31/3/1968):

Ngày 30 và 31/01/1968, quân và dân miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở 64 thành phố, thị xã, đánh vào sào huyệt cơ quan đầu não của địch, tấn công hàng loạt căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng và hệ thống giao thông của chúng. Ở Sài Gòn - Gia Định, ta tiến công nhiều mục tiêu quan trọng: tòa đại sứ Mỹ, Dinh Tổng thống Ngụy, Bộ Tổng Tham mưu Ngụy, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh… Ở Huế, ta đánh chiếm 39 mục tiêu quan trọng, làm chủ hầu hết thành phố và chốt giữ 25 ngày đêm, thành lập chính quyền cách mạng.

Phối hợp với mũi tiến công quân sự, nhân dân nhiều vùng nông thôn và đô thị đã nổi dậy diệt ác trừ gian, giải tán dân vệ, phá vỡ hàng rào "Ấp chiến lược". giành quyền làm chủ. Đây là đòn quyết định làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải "xuống thang chiến tranh", tạo ra bước ngoặc mở đầu thời kỳ đi xuống về chiến lược của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

          2.12. Chiến thắng Bầu Bàng - Dầu Tiếng (tháng 11/1965):

Chiến thắng Bầu Bàng - Dầu Tiếng củng cố niềm tin đánh thắng Mỹ, mở ra phong trào "Tìm Mỹ mà diệt, nắm thắt lưng Mỹ mà đánh" trong các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam.

2.13. Chiến dịch Đường 9 Nam Lào (từ 30/01 đến 23/3/1971):

Dự tính năm 1971 Mỹ Ngụy sẽ mở 3 cuộc hành quân lớn mang tên "Lam Sơn 719" đánh lên khu vực Đường 9 - Nam Lào.

Ngay từ đầu, địch đã bị ta chận đánh, ở đâu chúng cũng bị đánh. Lực lượng tại chổ của ta phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Pa Thet Lào đã liên tiếp tấn công địch. Sau hơn 1 tháng chiến đấu trong đó có nhiều trận đánh ác liệt giữa chủ lực ta với chủ lực cơ động Ngụy ở Bắc Đường 9. Đầu tháng 3/ 1971, bộ đội ta chuyển sang tiến công trên toàn mặt trận, bao vây, truy kích tập đoàn quân địch ở Bản Đông, tiêu diệt nhiều quân địch.

          2.14. 17 cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam năm 1972:

Ngày 30/3/1972, bộ đội ta bắt đầu mở cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường Trị Thiên, miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng khu 5 và Nam bộ. Kết quả, ta giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị, phần lớn tỉnh Kon-Tum, bắc Bình Định, một khu vực rộng lớn các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, một số vùng ở đồng bằng sông Cửu Long và khu 5, giải phóng và giành quyền làm chủ hơn 1 triệu dân.

          2.15. Quân và dân miền Bắc đánh bại Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ (06/4/1972 đến 15/01/1973):

Ngày 06/4/1972, đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá trở lại miền Bắc với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Ngày 09/5, chúng tiến hành phong tỏa các cảng và các vùng biển miền Bắc, đánh phá các cơ sở kinh tế và quốc phòng của ta. Trước tình hình đó, quân và dân miền Bắc đã nhanh chóng chuyển mọi hoạt động vào thời chiến với tinh thần chiến đấu dũng cảm và cách đánh mưu trí tài giỏi.

Cay cú trước những thất bại nặng nề, đêm 18/12/1972, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất, mang tên "chiến dịch lai-nơ bếch-cơ li" vào miền Bắc. Chúng tập trung một số lượng lớn máy bay, chủ yếu là B52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và một số khu vực khác trên miền Bắc. Một lần nữa, quân dân miền Bắc anh dũng chiến đấu, trừng trị đích đáng không quân Mỹ, đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của địch ở Hà Nội, Hải Phòng.

          2.16. Đại thắng mùa Xuân năm 1975:

Ngày 04/3/1975 bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên.

Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11/3, quân ta tiến công bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột.

Phát huy thắng lợi, ngày 21/3/1975 ta mở chiến dịch tiến công Huế-Đà Nẵng. Từ ngày 21 đến 26/3, ta tiến công chia cắt Huế-Đà Nẵng. Sau bốn ngày chiến đấu, ta giải phóng Thừa Thiên - Huế, tiếp đó giải phóng tỉnh Quảng Ngãi (25/3). Từ 27 đến 29, ta phát triển tiến công giải phóng Đà Nẵng.

Phối hợp với chiến dịch Huế - Đà Nẵng, từ Tây Nguyên bộ đội ta tiến xuống hỗ trợ lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương giải phóng các tỉnh Bình Định (ngày 01/4) Phú Yên (ngày 01/4) và Khánh Hoà (ngày 03/4).

Trên cơ sở những thắng lợi có ý nghĩa quyết định, ngày 04/4/1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng hoàn toàn Sài Gòn và miền Nam Việt Nam.

Ngày 26/4, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công mạnh và đồng loạt vào các mục tiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.

11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ Tổ Quốc tung bay trước Tòa nhà chính của Dinh Độc lập. Miền Nam hoàn toàn được giải phóng.

 

Câu 3: Truyền thống chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam?

Trả lời

Truyền thống chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam:

Trong dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) đã ghi dấu ấn rực rỡ với truyền thống chiến đấu vẻ vang, kiên cường bất khuất. Truyền thống ấy được hun đúc từ những ngày đầu thành lập, từ chiến thắng Phai Khắt và Nà Ngần, đến thắng lợi Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, rồi chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" oai hùng, và đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất đất nước.

Truyền thống ấy không chỉ là di sản quý báu của cha ông, mà còn là ngọn đuốc soi đường, dẫn lối cho thế hệ mai sau tiếp bước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hôm nay, hãy cùng ôn lại chặng đường lịch sử hào hùng và khám phá những giá trị cốt lõi của truyền thống chiến đấu QĐNDVN.

Nguồn gốc và sự hình thành truyền thống chiến đấu QĐNDVN:

1.1.          Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

Nắm bắt thời cơ thuận lợi, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời vào ngày 22-12-1944, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đội quân non trẻ đã kế thừa và phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh thần yêu nước với nghệ thuật quân sự độc đáo.

1.2. Hai chiến thắng đầu tiên: Phai Khắt và Nà Ngần

 Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "trận đầu phải thắng", đội quân đã táo bạo tiến công đồn Phai Khắt và Nà Ngần, tạo nên những chiến thắng vang dội.

 Hai chiến thắng này đã khẳng định sức mạnh của chiến tranh du kích, mở đầu cho truyền thống đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng, đánh thắng ngay trận đầu của QĐNDVN.

1.3. Từ "Quyết chiến, Quyết thắng" đến "Bộ đội Cụ Hồ"

Từ chiến thắng này, tinh thần "Quyết chiến, Quyết thắng" đã được củng cố và phát triển, trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của QĐNDVN.

Hình ảnh "Bộ đội Cụ Hồ" với phẩm chất cao đẹp, trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc cũng được hình thành từ giai đoạn này.

2. Truyền thống đoàn kết quốc tế của QĐNDVN:

          2.1. Tăng cường hợp tác với các nước láng giềng

QĐNDVN luôn chủ động tăng cường hợp tác, củng cố tình đoàn kết với các nước láng giềng, khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới.

Việc hợp tác này không chỉ góp phần xây dựng tình đoàn kết giữa các dân tộc, mà còn khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

2.2. Ủng hộ phong trào chống áp bức, bóc lột

QĐNDVN luôn kiên định ủng hộ phong trào chống áp bức, bóc lột, cường quyền, vì mục tiêu hoà bình, tiến bộ của nhân loại.

Sự ủng hộ này thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, đồng thời góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

2.3. Đấu tranh chống "diễn biến hòa bình"

QĐNDVN luôn chủ động, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", "phi chính trị hóa Quân đội" của các thế lực thù địch, phản động.

Cuộc đấu tranh này góp phần bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, và chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

3. Xây dựng tổ chức đảng trong QĐNDVN

3.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong QĐNDVN

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối trong QĐNDVN, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Các tổ chức đảng trong QĐNDVN được xây dựng trong sạch vững mạnh, có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao.

3.2. Đoàn kết nội bộ và phát huy dân chủ

QĐNDVN luôn chú trọng xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ, phát huy dân chủ, tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ tham gia đóng góp ý kiến xây dựng đơn vị.

Sự đoàn kết, dân chủ góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu và hiệu quả hoạt động của QĐNDVN.

3.3. Nâng cao chất lượng chính trị và quân sự

QĐNDVN luôn chú trọng nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, chiến sĩ, đồng thời không ngừng học tập, nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.

Việc nâng cao chất lượng chính trị và quân sự giúp QĐNDVN thích ứng với mọi tình hình, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

4. Truyền thống chiến đấu và chiến thắng trong các cuộc kháng chiến

4.1. Kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của chiến tranh nhân dân, đánh dấu thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp xâm lược.

4.2. Kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)

Chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" năm 1972 thể hiện ý chí sắt đá, lòng dũng cảm và tinh thần sáng tạo của QĐNDVN.

Đại thắng mùa Xuân 1975 thống nhất đất nước là đỉnh cao chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, kết thúc 30 năm trường kỳ kháng chiến.

4.3. Bảo vệ Tổ quốc sau chiến tranh

QĐNDVN tiếp tục phát huy truyền thống chiến đấu, bảo vệ vững chắc biên giới, hải đảo, thềm lục địa, vùng trời của Tổ quốc.

Quân đội tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.

5. Bài học kinh nghiệm và phát huy truyền thống

5.1. Bài học về lãnh đạo của Đảng

Vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung, và QĐNDVN nói riêng.

5.2. Bài học về sức mạnh của khối đại đoàn kết

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh vô song, giúp QĐNDVN vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

5.3. Phát huy truyền thống trong thời đại mới

Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế, QĐNDVN cần tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, phẩm chất cao đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với quân đội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong khu vực và trên thế giới.

Câu 4: Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam được biểu hiện như thế nào?

Trả lời

Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam là vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo QĐND Việt Nam không nhằm mục đích nào khác là để quân đội có bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Sự trung thành vô hạn của quân đội ta đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân được thể hiện rất rõ nét ở lòng trung thành, luôn sẵn sàng, tự nguyện chiến đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng cao cả đó.Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta đã chứng tỏ, sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Quân đội ta, mà trước hết ở việc quán triệt, xây dựng mục tiêu lý tưởng chiến đấu cho quân đội đã góp phần tạo lập nên bản lĩnh vững vàng, kiên định và động lực to lớn cổ vũ cán bộ, chiến sĩ toàn quân nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết một lòng, “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Phẩm chất cao đẹp nhất của Quân đội ta là trung với Đảng, hiếu với dân đã trở thành nét truyền thống vẻ vang, cũng được hình thành, phát triển bền vững từ sự giác ngộ sâu sắc và trung thành với mục tiêu lý tưởng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.

 

Câu 5: Phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới?

Trả lời:

Phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam là:

1.Xây dựng về chính trị - tinh thần.

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị - tinh thần là nguyên tắc trong xây dựng quân đội, là cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, thể hiện quan điểm coi yếu tố con người là quyết định thắng, bại trên chiến trường. Xây dựng về chính trị - tinh thần nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý Nhà nước, giữ vững bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của quân đội. Sức mạnh chiến đấu về chính trị - tư tưởng của lực lượng vũ trang Việt Nam còn được thể hiện ở ý chí phấn đấu vươn lên làm chủ khoa học - kỹ thuật quân sự hiện đại, thể hiện tinh thần dám đánh và biết thắng.

2.Tổ chức,biên chế và xây dựng nguồn nhân lực.

Trong thời bình, Việt Nam chủ trương tiếp tục giảm quân số thường trực, xây dựng lực lượng dự bị động viên phù hợp đáp ứng các yêu cầu khi có tình huống khẩn cấp hoặc chiến tranh. Lực lượng thường trực của quân đội được giữ ở mức độ hợp lý, tinh gọn, bảo đảm sức chiến đấu. Thực hiện giảm các đầu mối, từng bước chuyển giao một số hoạt động bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức dân sự, cơ cấu lại biên chế lực lượng vũ trang theo hướng ưu tiên cho các đơn vị chiến đấu, các đơn vị đang thực hiện nhiệm vụ quan trọng, các quân chủng, binh chủng kỹ thuật là những định hướng cơ bản về tổ chức và biên chế lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng.

3.Huấn luyện.

Trong thời bình, đi đôi với xây dựng về mặt chính trị - tinh thần, huấn luyện quân sự là công việc tất yếu để tăng cường sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Quân đội nhân dân Việt Nam coi trọng huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, phát huy tính năng, hiệu quả của các loại vũ khí, trang bị hiện có bằng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đồng thời coi trọng việc nâng cao kiến thức về công nghệ quân sự hiện đại; đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện cho phù hợp với qui mô tổ chức, trang bị và điều kiện thực tế của từng thứ quân, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

Đổi mới toàn diện công tác huấn luyện. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện: "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, sát yêu cầu, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động của từng lực lượng, từng đơn vị; phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong huấn luyện phải coi trọng huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ các cấp; diễn tập tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai; chống khủng bố..., bảo đảm cho các đơn vị xử lý tốt các tình huống, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

4.Vũ khí,trang bị kỹ thuật,hậu cần.

5.Xây dựng phát triển khoa học quân sự.

6.Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế về quốc phòng.

 

Câu 6: Cơ cấu tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay như thế nào?

Trả lời

Về cơ cấu tổ chức, Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm

Tổ chức và hệ thống tổ chức của Quân đội Nhân dân Việt Nam

a/ Tổ chức của Quân đội Nhân dân Việt Nam

QĐND Việt Nam của nước CHXHCN Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam, thuộc quyền thống lĩnh của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam và chỉ huy điều hành của Bộ trưởng Bộ quốc phòng.

QĐND Việt Nam gồm:

1.     Bộ đội chủ lực; Bộ đội địa phương; Bộ đội biên phòng.

2.     Lực lượng thường trực và lực lượng dự bị.

Được tổ chức theo một hệ thống thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở.

b/ Hệ thống tổ chức của Quân đội Nhân dân Việt Nam

1.     Bộ Quốc phòng.

2.     Các cơ quan Bộ quốc phòng.

3.     Các đơn vị thuộc Bộ quốc phòng.

4.     Các bộ, ban chỉ huy quân sự.

 

Câu 7: Ngày hội Quốc phòng toàn dân được Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định vào ngày, tháng, năm nào? Ý nghĩa của Ngày hội Quốc phòng toàn dân?

Trả lời

Thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và thể theo nguyện vọng của nhân dân cả nước, ngày 17 tháng 10 năm 1989, Ban Bí thư Trung ương Ðảng khóa VI ra Chỉ thị quyết định lấy ngày 22 tháng 12 - Ngày thành lập QĐND Việt Nam đồng thời là Ngày hội Quốc phòng toàn dân.Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn dân trong tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, cổ vũ, động viên toàn dân chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trên từng địa phương, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh trong tình hình mới.

 

Câu 8: Đồng chí (anh, chị) hãy nêu quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng; các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng được quy định trong Luật Quốc phòng năm 2018?

Trả lời

Theo quy định tại Điều 5, Luật Quốc phòng như sau:

1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

2. Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc; phải thực hiện nghĩa vụ quân sự; có nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; chấp hành biện pháp của Nhà nước và người có thẩm quyền trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

3. Công dân được tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng; giáo dục quốc phòng và an ninh; trang bị kiến thức, kỹ năng về phòng thủ dân sự theo quy định của pháp luật.

4. Công dân phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân hoặc được huy động làm nhiệm vụ quốc phòng thì bản thân và thân nhân được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.

5. Công dân bình đẳng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.

    

Câu 9: Đồng chí (anh, chị) hãy khái quát những điểm cơ bản trong Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015?

Trả lời

1. Về NVQS: Luật NVQS năm 2015 quy định: Công dân không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, trong độ tuổi thực hiện NVQS phải thực hiện NVQS theo quy định của Luật này.

- Nghĩa vụ phục vụ tại ngũ: Công dân nam trong độ tuổi thực hiện NVQS có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong QĐND; công dân nữ trong độ tuổi thực hiện NVQS trong thời bình nếu tự nguyện và quân đội có nhu cầu thì được phục vụ tại ngũ. 

2. Về chức vụ, cấp bậc quân hàm hạ sĩ quan, binh sĩ: Điều 8, Luật NVQS năm 2015 quy định đầy đủ chức vụ, cấp bậc quân hàm của hạ sĩ quan, binh sĩ để thực hiện thống nhất và đảm bảo chế độ phục vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

3. Về quyền và nghĩa vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ: Luật NVQS quy định quyền, nghĩa vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ phải thực hiện đối với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đây là nội dung cơ bản, thể hiện bản chất và yêu cầu của người quân nhân cách mạng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ vững bản chất cách mạng của quân nhân.

4. Về đăng ký NVQS và quản lý công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS: Luật quy định cụ thể về nguyên tắc đăng ký NVQS và quản lý công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS; đối tượng đăng ký NVQS; đối tượng không được đăng ký NVQS; đối tượng miễn đăng ký NVQS; cơ quan đăng ký NVQS; đăng ký NVQS lần đầu; đăng ký NVQS bổ sung, khi thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc, học tập, tạm vắng; đăng ký miễn gọi nhập ngũ trong thời chiến, đăng ký phục vụ trong ngạch dự bị và đưa ra khỏi danh sách đăng ký NVQS.

Việc đăng ký NVQS phải được thực hiện chặt chẽ và tiến hành tại cấp xã

nơi công dân cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi công dân làm việc.

5. Về nhập ngũ:

- Độ tuổi gọi nhập ngũ: Công dân nam đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ; độ tuổi gọi nhập ngũ trong thời bình từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi; công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ đến hết 27 tuổi. 

-  Thời điểm gọi công dân nhập ngũ: Luật quy định thời điểm gọi công dân nhập ngũ được thực hiện vào tháng 2 hoặc tháng 3 hàng năm.

- Tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình: Đối tượng là học sinh phổ thông, sinh viên đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian 1 khóa đào tạo của 1 trình độ đào tạo. Đối với học sinh đang học phổ thông, sinh viên đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp sẽ được gọi nhập ngũ. Đối với công dân đang học tập tại các nhà trường hoặc trúng tuyển vào các trường thuộc cơ sở giáo dục không thuộc đối tượng tạm hoãn gọi nhập ngũ thì được gọi nhập ngũ và bảo lưu kết quả, sau khi hoàn thành NVQS tại ngũ sẽ được tiếp nhận để học tập. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam bị suy giảm khả năng lao động từ 61 - 80%.

6. Về chế độ, chính sách và ngân sách bảo đảm trong việc thực hiện NVQS: Đối với hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ từ tháng thứ 13 trở đi, mỗi năm được nghỉ phép 1 lần; từ tháng thứ 25 trở đi được hưởng thêm 250% phụ cấp quân hàm hiện hưởng hàng tháng; được tạm hoãn trả và không  tính lãi suất khoản vay từ Ngân hàng CSXH mà trước khi nhập ngũ là thành viên hộ nghèo, học sinh, sinh viên theo quy định của pháp luật; được Nhà nước bảo đảm chế độ BHXH, BHYT; trong thời gian phục vụ tại ngũ lập được thành tích trong chiến đấu, công tác, huấn luyện được khen thưởng; nếu bị thương, bị bệnh hoặc hy sinh, từ trần thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật.

Khi xuất ngũ, được trợ cấp xuất ngũ, tiền tàu xe, phụ cấp đi đường; được trợ cấp tạo việc làm; trước khi nhập ngũ đang học tập hoặc có giấy gọi vào học tập tại các nhà trường được bảo lưu kết quả và tiếp nhận vào học tại các trường; được ưu tiên trong tuyển sinh, cộng điểm trong thi tuyển công chức, viên chức và sắp xếp việc làm; trong thời gian tập sự được hưởng 100% mức lương và phụ cấp của ngạch tuyển dụng tương ứng với trình độ đào tạo...

 

Câu 10. Vinh dự, trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay (không quá 3000 từ)

Trả lời:

          Sự nghiệp quốc phòng bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng và trọng trách cao cả của mỗi công dân Việt Nam. Trong bối cảnh mới, với những thách thức và nguy cơ tiềm ẩn, việc phát huy sức mạnh toàn dân để bảo vệ Tổ quốc càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Bài viết này sẽ phân tích tầm quan trọng của sự nghiệp quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, đồng thời khẳng định vinh dự và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước.

          Là một người con đất Việt, ai ai cũng biết rằng Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước lâu đời, được hun đúc và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Tình yêu đất nước là nền tảng tinh thần của mỗi người dân, là động lực to lớn để họ cống hiến, bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước thể hiện qua nhiều hành động thiết thực, như học tập, lao động, tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

          Là một người lính đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Bí thư Chi đoàn cơ sở, tôi luôn mang trong mình niềm tự hào và ý thức trách nhiệm cao cả trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trải qua chiều dài lịch sử, bản thân đã không ngừng kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, anh dũng kiên cường, sẵn sàng cống hiến, hy sinh để bảo vệ Đảng, Nhà nước - bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc.

          I. Vinh dự, trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

          1. Vinh dự của bản thân đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc

          1.1. Được tiếp nối truyền thống vẻ vang của dân tộc

Truyền thống yêu nước và bất khuất của dân tộc đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Trải qua bao cuộc chiến tranh “vệ quốc” cam go, thế hệ cha anh đã không tiếc máu xương, hy sinh cả tuổi thanh xuân để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc. Là thế hệ con cháu, được hưởng thành quả cách mạng cao đẹp ấy, tôi luôn cảm thấy tự hào và vinh dự khi được tiếp nối và phát huy truyền thống vẻ vang ấy.

          1.2. Góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ quốc

Bất kỳ quốc gia nào cũng luôn đặt việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và toàn vẹn lãnh hải lên hàng đầu. Là công dân của một quốc gia độc lập, mỗi cá nhân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia vào sự nghiệp này. Việc tham gia vào lực lượng vũ trang, cống hiến sức lực và trí tuệ để bảo vệ Tổ quốc chính là một vinh dự lớn lao đối với tôi, góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng phát triển và thịnh vượng.

          1.3. Rèn luyện bản thân, phát triển phẩm chất, năng lực

Quá trình tham gia bảo vệ Tổ quốc cũng chính là quá trình rèn luyện bản thân, nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực của mỗi cá nhân như tôi. Cuộc sống quân ngũ với kỷ luật nghiêm minh, môi trường rèn luyện khắc nghiệt giúp tôi rèn luyện tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, sự dũng cảm, lòng yêu nước và ý chí kiên cường. Bên cạnh đó, tôi còn được học hỏi và phát triển kỹ năng, kiến thức chuyên môn, góp phần nâng cao trình độ của bản thân, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

          1.4. Nhận được sự tin tưởng và yêu quý từ gia đình, xã hội

Việc cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước của mỗi cá nhân nói chung và tôi sẽ nhận được sự tin tưởng, yêu quý và trân trọng của gia đình, xã hội. Bởi đó là nguồn động lực to lớn, là hậu phương vững chắc để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sự tin tưởng và yêu quý từ gia đình, xã hội chính là nguồn động viên tinh thần to lớn, giúp tôi thêm vững bước trên con đường cống hiến cho Quân đội và cho đất nước.

          1.5. Cơ hội cống hiến và khẳng định bản thân

Tham gia lực lượng vũ trang không chỉ là bảo vệ Tổ quốc, mà còn là cơ hội để khẳng định bản thân, cống hiến tài năng cho đất nước. Quân đội là môi trường năng động, sáng tạo, luôn tạo điều kiện cho các thành viên được phát huy hết khả năng của mình. Với kiến thức chuyên môn và năng lực được bồi dưỡng, tôi có cơ hội được áp dụng vào thực tế, đóng góp công sức vào việc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.

          1.6. Gắn bó với cộng đồng, chung tay xây dựng đất nước

Bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang còn tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, chung tay cùng người dân xây dựng quê hương đất nước. Từ việc giúp đỡ đồng bào khắc phục hậu quả thiên tai, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn cho đến tham gia công tác phòng chống dịch bệnh, cứu hộ cứu nạn... Lực lượng vũ trang luôn có mặt để hỗ trợ người dân, thể hiện trách nhiệm của người lính. Minh chứng sáng cho vấn đề này là một loạt các hoạt động của chi đoàn Bảo tàng Hậu cần/ Cục Chính trị/ Tổng cục Hậu cần tham gia hỗ trợ người dân trong thời điểm dịch covid bùng phát năm 2021, 2022.

          2. Trách nhiệm và nhiệm vụ của bản thân đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay

          Hoạt động quốc phòng bao gồm nhiều hình thức, như tham gia dân quân tự vệ, tham gia huấn luyện quân sự, tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Mỗi người dân đều có trách nhiệm đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Ý thức, trách nhiệm thể hiện qua việc chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, tham gia hoạt động quốc phòng, rèn luyện sức khỏe - ý chí - tinh thần, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh. Đất nước phát triển, quốc phòng vững mạnh là mơ ước của mỗi người dân Việt Nam với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Để nâng cao trách nhiệm bản thân xác định:

          2.1. Trau dồi kiến thức, rèn luyện sức khỏe, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ

Với vai trò là quân nhân trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tôi không ngừng nỗ lực trau dồi kiến thức, rèn luyện sức khỏe, nâng cao ý thức cảnh giác và tinh thần sẵn sàng chiến đấu. Bởi trau dồi kiến thức giúp tôi có những hiểu biết sâu rộng, nắm vững những kiến thức về quốc phòng, an ninh. Bên cạnh đó, rèn luyện sức khỏe giúp tôi có nền tảng thể lực tốt, đủ sức khỏe để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Tôi tin rằng với lòng nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm và những kiến thức, kỹ năng đã được bồi dưỡng, tôi sẽ hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ khi được tổ chức giao, đóng góp sức trẻ của mình để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.

          2.2. Luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng bảo vệ chủ quyền biển, đất liền của Tổ quốc

Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ an ninh quốc gia và mang lại cuộc sống hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, đặc biệt là những thách thức về chủ quyền biển, đảo, tôi luôn ý thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Luôn cập nhật thông tin thời sự, nâng cao nhận thức về tình hình biển, đảo của Tổ quốc, sẵn sàng tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đất liền khi có yêu cầu của đơn vị, kịp thời tố cáo khi phát hiện các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng cũng như trong cuộc sống đời thực.

          2.3. Tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ môi trường và an ninh trật tự.

Môi trường là nơi sống của con người. Môi trường bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi người dân đều phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ cuộc sống của chính mình và thế hệ mai sau. Bảo vệ môi trường quan trọng là thế song không thể chỉ bảo vệ môi trường mà chúng ta cần phải giữ gìn an ninh trật tự. Trật tự là điều kiện cần thiết để xây dựng đất nước phát triển. Mỗi người dân đều có trách nhiệm giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ cuộc sống bình yên cho mọi nhà.

          Là Bí thư chi đoàn, tôi cùng các đoàn viên tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ môi trường như: trồng cây xanh, bảo vệ động vật, thu gom rác thải để vào nơi quy định, tiết kiệm điện nước, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. Bên cạnh đó, Chi đoàn do tôi phụ trách phối hợp với chi đoàn tổ dân phố tham gia các phong trào bảo vệ an ninh trật tự khu dân cư, đấu tranh với các tệ nạn xã hội, góp phần tạo môi trường xã hội ổn định và phát triển. 

          2.4. Nâng cao tinh thần yêu nước, đoàn kết và ý thức trách nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc

          Thực hiện lời dạy của Người: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết…”. Đoàn kết là sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân ta luôn đoàn kết một lòng, vượt qua mọi thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù. Tinh thần đoàn kết được thể hiện qua sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cùng chung sức xây dựng đất nước giàu mạnh. Dân tộc Việt Nam luôn kết đoàn để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, tự do. Bản thân tôi luôn thầm nhủ mình phải học Bác một đời, học Bác mãi mãi. Vâng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cần sự đoàn kết, đồng lòng của toàn dân. Tôi tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chung tay xây dựng quê hương đất nước, thể hiện tinh thần yêu nước, đoàn kết và trách nhiệm với Tổ quốc. Nâng cao nhận thức về trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng tham gia bảo vệ đất nước khi có yêu cầu. Bên cạnh đó, tôi lan tỏa tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng cho con, cháu, thế hệ trẻ, góp phần giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức, lối sống tốt đẹp cho thế hệ mai sau.

          2.5. Phát huy truyền thống yêu hòa bình, xây dựng tình hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới

          Xây dựng tình hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới là xu hướng tất yếu của thời đại, góp phần củng cố hòa bình, ổn định, phát triển cho khu vực và thế giới. Là một quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi ý thức được trách nhiệm của mình trong việc phát huy truyền thống yêu hòa bình, tăng cường giao lưu văn hóa, hợp tác kinh tế với bạn bè, đối tác nước ngoài ở trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, tôi tích cực tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế trên môi trường internet, thể hiện tinh thần hữu nghị và hợp tác của bản thân nói riêng và Việt Nam với các nước bạn nói chung.

          2.6. Ý chí kiên cường, lòng dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng kẻ thù xâm lược

          Với ý chí kiên cường, bất khuất và lòng dũng cảm, trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, nhân dân ta đã chiến thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc. Với truyền thống ấy, trong cuộc sống ngày nay, mỗi người đều phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Ý chí kiên cường và lòng dũng cảm giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đạt được thành công trong cuộc sống. Ý chí kiên cường cũng là sức mạnh tinh thần. Lòng dũng cảm là vũ khí lợi hại để chiến thắng và thành công.

          2.7. Giữ vững phẩm chất tốt đẹp về lòng nhân ái của Bộ đội Cụ Hồ

          Lòng nhân ái là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Xưa kia trong chiến tranh Bác Hồ và các chiến sĩ đã thể hiện lòng nhân ái không chỉ với nhau mà còn đối với tù binh là kẻ thù xâm lược. Ngày nay mỗi người dân nói chung và cá nhân tôi, lòng nhân ái thể hiện qua việc giúp đỡ người nghèo, người khó khăn, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lòng nhân ái là sức mạnh tinh thần để bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.

          2.8 Tuyên truyền, giáo dục về quốc phòng

          Tuyên truyền, giáo dục về quốc phòng là nhiệm vụ quan trọng để nâng cao nhận thức của mọi người về sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Là bí thư chi đoàn tôi luôn kịp thời triển khai việc học tập, quán triệt, truyên truyền về các Nghị quyết, chủ trương của Đảng; Nghị quyết, kết luận, chương trình của Đoàn đến mọi đoàn viên. Trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

          Tóm lại, sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Mỗi người dân đều có trách nhiệm đóng góp vào sự nghiệp này. Bằng những hành động thiết thực, chúng ta sẽ góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.

          Là đảng viên, bí thư chi đoàn để trở thành một công dân gương mẫu trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, tôi quyết tâm: thực hiện tốt chức năng, vai trò quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Tuân thủ pháp luật, chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Tham gia tích cực các hoạt động bảo vệ môi trường, an ninh trật tự; Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tinh thần trách nhiệm để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mãi trường tồn bất diệt./.

 

NGƯỜI VIẾT

 

 

 

 

Đại úy CN Vũ Văn Dương

 

0 comments:

Đăng nhận xét

Need an Invite?

Want to attend the wedding event? Be our guest, give us a message.

Tên Email * Thông báo *

Our Location

Đánh giá chúng tôi trên Google Map: https://g.page/r/CaiU9OZINlNdEBM/review